Tăng cơ sở giáo dục nghề nghiệp tư thục, giảm công lập
Mục tiêu cụ thể của quy hoạch là đến năm 2025, mạng lưới cơ sở GDNN đủ năng lực đáp ứng nhu cầu nhân lực qua đào tạo nghề của nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp.
Theo đó, đến năm 2025, giảm ít nhất 20% cơ sở giáo dục nghề nghiệp công lập so với năm 2020, nâng tỷ lệ cơ sở giáo dục nghề nghiệp tư thục và có vốn đầu tư nước ngoài lên khoảng 45%.
Đến năm 2030, mạng lưới cơ sở GDNN đủ năng lực đáp ứng nhu cầu nhân lực qua đào tạo nghề của nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Giảm ít nhất 30% cơ sở GDNN công lập so với năm 2020, trong đó: giảm khoảng 50% trường trung cấp công lập; nâng tỷ lệ cơ sở GDNN tư thục, cơ sở GDNN có vốn đầu tư nước ngoài lên khoảng 50%.
Tầm nhìn đến năm 2045 là mạng lưới cơ sở GDNN đủ năng lực đáp ứng nhu cầu nhân lực qua đào tạo nghề của nước phát triển, thu nhập cao; chất lượng đào tạo thuộc nhóm dẫn đầu trong khu vực ASEAN; một số cơ sở GDNN bắt kịp trình độ tiên tiến của thế giới, có năng lực cạnh tranh vượt trội ở một số lĩnh vực, ngành, nghề đào tạo.

Trường Cao đẳng Hà Nội (HNC) đào tạo ngành nghề Y Dược có uy tín tại khu vực miền Bắc
Giáo dục nghề nghiệp – các bậc trình độ đào tạo được hình thành theo hướng mở
Theo báo cáo của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, tính đến tháng 6/2023, cả nước có 1.888 cơ sở giáo dục nghề nghiệp, gồm: 397 trường cao đẳng, 433 trường trung cấp và 1.058 trung tâm giáo dục nghề nghiệp. Trong đó có 1.205 cơ sở GDNN công lập (chiếm 63,8%) với 313 trường cao đẳng, 204 trường trung cấp, 698 trung tâm GDNN.
Về kiểm định chất lượng, đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia, Bộ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội Đào Ngọc Dung thông tin, đến nay đã hình thành hệ thống kiểm định chất lượng độc lập.
Các hoạt động về kiểm định chất lượng GDNN dần đi vào ổn định. Song song với hoạt động tự kiểm định của các cơ sở GDNN, đã tổ chức kiểm định bên ngoài (đánh giá ngoài) đối với các cơ sở GDNN và kiểm định chương trình đào tạo đối với một số nghề; Đã thực hiện một số chương trình, đề án, dự án hợp tác quốc tế về bảo đảm và kiểm định chất lượng GDNN theo tiêu chuẩn quốc tế; Tổ chức xây dựng và ban hành các bộ tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia; hình thành hệ thống các tổ chức đánh giá kỹ năng nghề cho người lao động gắn với đầu tư xây dựng các ngành, nghề trọng điểm ở cơ sở GDNN; Bước đầu nghiên cứu khung công nhận lẫn nhau về trình độ và kỹ năng nghề giữa Việt Nam và các quốc gia khu vực ASEAN và thế giới để tiến tới công nhận lẫn nhau về trình độ, thúc đẩy phát triển kỹ năng, di chuyển lao động và học sinh, sinh viên.
Có thể nói, chất lượng và hiệu quả GDNN từng bước được nâng lên, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu sử dụng lao động của doanh nghiệp và thị trường lao động.

Tăng cơ sở giáo dục nghề nghiệp tư thục – tăng cơ hội việc làm cho giới trẻ
Kỹ năng nghề của người học tại các cơ sở giáo dục nghề nghiệp được tăng cường
Khoảng trên 80% người tốt nghiệp đã có việc làm, trong đó 70% – 75% người tốt nghiệp có việc làm đúng ngành, nghề đào tạo; một số cơ sở giáo dục nghề nghiệp có uy tín về chất lượng đào tạo, gắn kết chặt chẽ với doanh nghiệp có tỷ lệ việc làm sau tốt nghiệp đạt 100% và 85- 90% người tốt nghiệp có việc làm đúng ngành, nghề đào tạo.
Đặc biệt, sự gắn kết với doanh nghiệp và thị trường lao động chuyển biến tích cực, nhìn nhận của doanh nghiệp về GDNN có thay đổi trong việc hợp tác giữa doanh nghiệp với cơ quan quản lý nhà nước các cấp và cơ sở GDNN.
Cơ sở GDNN và doanh nghiệp đã có nhiều hình thức, mô hình hợp tác đa dạng, phong phú, gắn kết giữa đào tạo và giải quyết việc làm cho người học sau tốt nghiệp, nhiều cơ sở GDNN đã thành lập bộ phận chuyên trách về gắn kết doanh nghiệp, đáng chú ý, các bậc trình độ đào tạo GDNN được hình thành theo hướng mở, liên thông, phù hợp với hệ thống GDNN các nước trên thế giới.
Bộ Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đã phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo trình Chính phủ ban hành khung trình độ quốc gia gồm 8 bậc, trong đó GDNN có 5 bậc (từ bậc 1-5), bảo đảm tính liên thông giữa các bậc, tạo điều kiện công nhận trình độ và học tập suốt đời.
Khung trình độ quốc gia đã tham khảo Khung tham chiếu trình độ ASEAN (AQRF), Khung trình độ châu Âu (EQF), do đó sẽ tạo điều kiện cho việc công nhận lẫn nhau về trình độ đào tạo, tăng cường hội nhập quốc tế trong giáo dục và đào tạo.
